PHÂN LOẠI CÁC MÀN HÌNH ĐIỆN THOẠI HIỆN NAY - LCD, TFT LCD, IPS LCD, SUPER LCD 2, SUPER LCD 3, IPS QUANTUM, LED-BACKLIT IPS LCD, AMOLED, SUPER AMOLED

Tấm nền trang bị cho các điện thoại luôn được người tiêu dùng quan tâm hàng đầu, tùy vào từng phân khúc mà các nhà sản xuất trạng bị cho chiếc điện thoại của mình tấm nền riêng. Tấm nền ảnh hưởng rất nhiều đến nhu cầu giải trí của người dùng, tấm nền tốt sẽ đem lại một màn hình hiển thị tốt, phục vụ nhu cầu chơi game cấu hình khủng, xem phim, chụp ảnh quay phim chất lượng cao. Sau đây, Keywait sẽ tổng hợp lại những chuẩn màn hình thông dụng hiện nay sẽ giúp các bạn có được sự lựa chọn tối ưu nhất khi muốn mua một thiết bị mới.

1. Màn hình LCD
LCD (Liquid Crystal Display - màn hình tinh thể lỏng) là một công nghệ màn hình thường được sử dụng trên nhiều thiết bị. Màn hình LCD không tự tạo ánh sáng mà phải nhờ đến đèn nền để phát sáng.


Mật độ của màn hình LCD rất thấp vì vậy trong ánh sáng mặt trời màu sắc xuất hiện rất kém. Chất lượng của màn hình LCD thay đổi tùy theo quá trình sản xuất và sử dụng, hầu hết các màn hình trên điện thoại giá rẻ hiện nay điều được làm từ màn hình LCD cung cấp màu sắc và góc nhìn rất hẹp.
2. Màn hình TFT - LCD
Màn hình TFT (Thin Film Transistor – bóng bán dẫn dạng phim mỏng) bắt đầu được đưa vào smartphone vào năm 2005, có khả năng tái tạo màu tốt hơn và độ phân giải hình ảnh cao hơn so với các màn hình LCD thế hệ trước đó. Do chi phí sản xuất màn hình TFT đã giảm đáng kể từ sau 2005, công nghệ màn hình này đã xuất hiện phổ biến trên điện thoại cơ bản và smartphone giá thấp.
Điểm yếu của màn hình TFT-LCD là góc nhìn không rộng, phải nhìn thẳng vào màn hình mới thấy được hình ảnh rõ nét. Bên cạnh đó, tiêu hao pin của màn hình TFT-LCD khá cao khi so sánh với những công nghệ màn hình mới gần đây.
So sánh TFT và TFT IPS
3. Màn hình Super LCD
Super LCD là phiên bản nâng cấp đặc biệt của TFT-LCD được biết đến như là đối thủ của màn hình AMOLED, Super LCD có độ tượng phản tốt hơn, màu sắc sinh động hơn và hiển thị dưới ánh sáng mặt trời dễ nhìn hơn so với màn hình AMOLED. Tuy nhiên, màn hình này hao pin hơn so với màn hình AMOLED và có độ sáng thấp hơn.

4. Màn hình IPS LCD
Màn hình IPS (In Plane Switching) là nhánh chủ đạo của màn hình LCD. Màn hình IPS được phát triển bởi hãng Hitachi vào năm 1996 nhằm khắc phục những nhược điểm cố hữu của công nghệ màn hình truyền thống có góc nhìn và dải màu hẹp.
Màn hình IPS bao gồm những thành phần đặc trưng của LCD, tuy nhiên điểm khác biệt của màn hình này là các lớp tinh thể lỏng giờ đây được xếp theo hàng ngang (đây là nguồn gốc của cụm từ "In Plane") song song với 2 lớp kính phân cực ở trên và dưới thay vì vuông góc. Sự thay đổi này làm giảm lượng ánh sáng tán xạ, cung cấp góc nhìn rộng và tái tạo màu sắc tốt.
Màn hình IPS hiển thị hình ảnh với gam màu rộng hơn, thường được sử dụng trong các thiết bị cao cấp, rất thích hợp cho thiết kế đồ họa vốn đòi hỏi khắt khe về chất lượng hiển thị, ngoài ra màn hình IPS còn cung cấp góc nhìn lên tới 178 độ so với phương ngang, điều này có nghĩa là người dùng không nhất thiết phải ngồi trực diện vẫn có thể trải nghiệm hết chất lượng của hình ảnh.
5. Màn hình LED-backlit IPS LCD
LED-backlit IPS LCD ra đời dựa trên sự kết hợp giữa LCD, LED-Backlit và công nghệ tấm nền IPS. Nói đơn giản thì nó là công nghệ dùng nhiều pixel nén trên màn hình LED-Blacklit có góc nhìn lớn hơn nhờ tấm nền IPS (In-Plane Switching). Các đại diện nổi tiếng sử dụng công nghệ này có thể kể đến như iPad mini 1,2,3, iPhone 6, iPhone 6 Plus.

6. IPS Quantum (màn hình IPS lượng tử)
IPS Quantum được LG áp dụng lên siêu phẩm G4, thực chất là công nghệ hiển thị mà các hãng phim đang hợp tác cùng sử dụng có tên DCI (Digital Cinema Initiatives). Với mong muốn chuẩn hóa về mặt kĩ thuật nên những tên tuổi lớn như Disney, Paramount, Sony và 20th Century Fox đã cùng nhau thành lập một tiêu chuẩn là DCI. Công nghệ này tập trung vào việc hiển thị những màu sắc mà mắt người dễ nắm bắt nhất là màu đỏ và xanh lam, tạo ra tỉ lệ hiển thị tốt nhất.
Một màn hình theo đúng chuẩn DCI có giá trên 6000 USD trong khi màn hình của G4 đạt tỉ lệ 98% so với tiêu chuẩn DCI, độ chân thực đạt 98%.
Họ dùng một loại vật liệu mới có tên Negative LC trong quá trình chế tạo tấm nền LCD để tăng độ sáng thêm 25%, hoán đổi tinh chất phốt pho để làm màu đỏ và xanh lục. Tóm lại là phần ánh sáng xanh lam đã được thay đổi trong quá trình tạo ra các pixel của 3 màu cơ bản. Kết quả là độ chính xác màu sắc được tăng cường và màn hình IPS LCD của LG có khả năng thể hiện màu đen giống như màn hình AMOLED.
7. Màn hình OLED
Cấu tạo màn hình OLED
Công nghệ OLED (Organic Light Emitting Diode) sử dụng đi-ốt hữu cơ phát quang được Kodak nghiên cứu và phát triển từ những năm 1980. Các phân tử OLED có khả năng tự phát sáng (phát sáng trực tiếp) khi có dòng điện chạy qua nên không cần sử dụng ánh sáng nền phát quang riêng như LCD. Điều này giúp màn hình OLED tiết kiệm điện năng khá lớn so với màn hình LCD, đồng thời độ phân giải, độ tương phản và góc nhìn cũng cao hơn. Việc sản xuất màn hình OLED kích thước lớn, cực mỏng (dày chưa đến 1mm) rất dễ dàng so với màn hình LCD. Ngoài ra, loại màn hình này có thể cuộn lại, dán vào tường hoặc đem căng lên trong khung như màn hình chiếu phim.

8. Màn hình AMOLED
AMOLED là viết tắt của cụm từ "Active Matrix Organic Light Emitting Diode", tạm dịch là "đi-ốt phát sáng hữu cơ ma trận động". Samsung là nhà sản xuất và cũng là công ty sáng tạo ra công nghệ màn hình này.Công nghệ này là một trong những công nghệ màn hình mới có nhiều ưu thế và được đánh giá sẽ thay thế màn hình TFT. Màn hình AMOLED hiển thị rực rỡ hơn màn hình TFT và tiêu thụ điện thấp hơn.
Cấu tạo màn hình AMOLED
Màn hình AMOLED được cấu thành từ những điểm ảnh sắp xếp theo cấu trúc ma trận Pentile (tên gọi mà Samsung đặt cho kiểu sắp xếp này), các điểm ảnh được điều khiển bởi dòng điện cho phép chúng tự  phát sáng nhờ đó sẽ tiết kiệm pin hơn khi màn hình hoạt động. Mỗi điểm ảnh của màn hình AMOLED chỉ có thể hiển thị một màu xanh lá và 1 trong 2 màu đỏ hoặc xanh dương, thứ tự sắp xếp của chúng là Đỏ - xanh lá – xanh dương – xanh lá, khác với thứ tự chuẩn của màn hình LCD là Đỏ - xanh dương – xanh lá, chính vì vậy chúng ta hay được nghe những nhận định về màn hình AMOLED là bị ám màu xanh nhiều, một phần cũng do cách sắp xếp các ma trận điểm ảnh này.

So với TFT, màn hình AMOLED có khả năng tái tạo màu rõ nét và sống động hơn, độ nét cao hơn, màu đen đậm hơn (độ tương phản cao hơn) và góc nhìn rộng hơn. Ngoài ra, AMOLED cũng nhẹ hơn so với màn hình TFT, giúp giảm trọng lượng của điện thoại. Nhưng màn hình này cũng có yếu điểm là hiển thị hình ảnh khá kém dưới ánh sáng mặt trời. Màn hình AMOLED hiện xuất hiện các smartphone cao cấp của Samsung, HTC và Nokia.

9. Super AMOLED
Samsung đã phát triển một cách sắp xếp điểm ảnh mới lần đầu được áp dụng trên Galaxy S5 đó là ma trận điểm ảnh kiểu kim cương theo như hình dưới đây. Theo như Samsung công bố, họ đã thu nhỏ điểm ảnh xanh lá và xếp xen kẽ giữa những điểm ảnh đỏ và xanh dương một góc 45 độ, cách làm này vừa làm giảm ảnh hiện tượng ám màu của màn hình AMOLED, đồng thời giữ cho mỗi điểm ảnh có thể hiện thị đủ 3 màu cơ bản như màn hình LCD truyền thống.
Ma trận kim cương
So sánh LCD và Super AMOLED
Bằng cách kết hợp màn cảm ứng (touch panel) và lớp kính trên cùng, Samsung đã tạo ra màn hình có màu sắc nổi bật hơn so với các màn hình AMOLED thông thường và có khả năng hiển thị rõ hơn dưới ánh sáng mặt trời. Công nghệ màn hình này đã được đưa vào các smartphone cao cấp của Samsung như Galaxy S.

10. Super AMOLED Plus
Công nghệ này lần đầu tiên được sử dụng trên chiếc Galaxy S II của Samsung. Điểm khác biệt lớn nhất của công nghệ này là việc cấu trúc lại các điểm ảnh phụ, giúp nó gần giống với màn hình LCD, đồng nghĩa với việc hình ảnh hiển thị rõ ràng và sắc nét hơn.

11. Super AMOLED HD
Đây là thuật ngữ do Samsung tạo ra, đơn giản chỉ là một bản độ phân giải cao (720 x 1.280 pixel hoặc cao hơn) của màn hình Super AMOLED. Hiện tại, Samsung đã từ bỏ loại màn hình Super AMOLED Plus và quay trở lại công nghệ Super AMOLED và nâng lên chuẩn HD. Loại màn hình này được sử dụng trên chiếc Galaxy Note và Galaxy S III của hãng.

12. Màn hình Retina
Retina là một thuật ngữ mang đậm tính marketing của Apple, nhằm chỉ loại màn hình IPS-LCD có mật độ điểm ảnh cao đến mức mắt thường của người không thể phân biệt được từng điểm ảnh riêng biệt ở góc nhìn thông thường.

Mật độ điểm ảnh trên màn hình Retina cũng được chia ra nhiều “chuẩn” khác nhau tùy từng thiết bị và tầm nhìn thông thường của người dùng. Chẳng hạn như với chiếc iPhone 4S kích thước nhỏ, tầm nhìn của người dùng sẽ gần hơn nên mật độ điểm ảnh của nó lên đến 326 ppi trong khi trên chiếc iPad mới, mật độ này chỉ là 264 ppi.

13. Mobile BRAVIA Engine

BRAVIA là một công nghệ khá nổi tiếng, được sử dụng cách đây khá lâu trên các dòng TV của Sony. Công nghệ Mobile BRAVIA Engine được cho là thiết kế đặc biệt để cải thiện chất lượng hình ảnh và video, tăng độ tương phản và cho màu sắc tự nhiên nhất có thể.

14. NOVA

Đây cũng là một biến thể của màn hình LCD, được LG sử dụng trên dòng Optimus Black của hãng. Nó có khả năng cho độ sáng cực cao nhưng cực tiết kiệm điện năng.

15. ClearBlack

Công nghệ màn hình này thuộc về Nokia. Nó có khả năng kết hợp các phản ứng trong tấm hiển thị và tấm cảm ứng làm giảm phản xạ và cung cấp hiệu suất tốt hơn nhiều khi nhìn ngoài trời. Mặc dù những lợi ích của màn hình này tương tự như màn Super AMOLED nhưng công nghệ làm ra chúng rất khác nhau. Màn hình này có góc nhìn tốt hơn và hiển thị màu đen tốt hơn. Hiện nay, nó được sử dụng rộng rãi trong các thiết bị Lumia của Nokia.

16. DVGA là công nghệ màn hình được Apple phát triển dựa trên công nghệ màn hình VGA tuy nhiên loại màn hình này có độ phân giải cao hơn VGA nhiều, đạt 640 x 1136 pixels. được sử dụng trên các sản phẩm iPhone 5,iPhone 5s của Apple.


Các bài liên quan




Back To Top